Nguyên tiêu (元宵)
nghĩa là đêm trăng đầy nhất của tháng đầu tiên trong năm, tức rằm tháng giêng.
Đêm trăng sáng khởi đầu của một năm mới với hương khí tinh nguyên của tiết trời
ấm lành, tràn đầy sức sống mùa xuân.
Theo cụ Đào Duy Anh, nguyên nghĩa chữ tiết ở
trong nghĩa của thời tiết, các tiết trong năm, về sau người ta gọi chệch đi
là tết, nên tiết Nguyên tiêu thành Tết Nguyên
tiêu là vậy. Do tết Nguyên tiêu được người xưa tổ chức vào ngày Rằm
tháng Giêng, lại có vật phẩm dâng cúng Trời - Phật - Thánh một cách thành
kính nên cũng gọi lễ Cúng rằm tháng Giêng. Đây cũng
làcái Tết đầu xuân sau Nguyên đán nênlại gọi Tết Thượng nguyên (vì
dựa vào phép lịch cũ qui định thì một năm được chia làm 3 nguyên. NgàyRằm
tháng Giêng là Thượng nguyên; Rằm tháng bảy là Trung nguyên; rằm
tháng mười là Hạ nguyên), một lễ tết truyền thống vốn có từ lâu đời. Theo các
kinh sách Phật giáo, ngày mồng một và ngày rằm là ngày của Phật hay của Bụt.
Ngày Rằm tháng Giêng là ngày duyên lành phổ độ, ngày Đức Phật giáng
lâm xuống các chùa chiền để chứng độ lòng thành của tín chúng đạo hữu. Cho nên,
các ngôi chùa vàoRằm tháng Giêng đèn hoa cờ phướn kết dày lộng lẫy, người
người đi lễ Phật rất đông, để cầu xin Đức Phật phù hộ cho mọi sự được thiện
lành, bình an. Bởi vậy cho nên dân gian mới có câu: “Lễ Phật quanh năm
không bằng ngày rằm tháng giêng” hoặc “Ăn chay quanh năm không bằng
ngày rằm tháng giêng”.
Trước cảnh đẹp của mùa xuân, thời khắc giao hòa,
khí vận đổi thay, trải qua nhiều triều đại, vua chúa Trung Quốc cũng như Việt
Nam có lệ ban lấy ngày Nguyên tiêu là dịp để triệu tập các Trạng nguyên và
những người đỗ đạt cao trong nước về kinh hội họp, đãi yến tiệc trong vườn
Thượng Uyển. Tại đây, các ông Trạng cùng nhau xem hoa thưởng nguyệt, làm thơ
xướng họa, ứng đáp câu đối, thổi sáo chơi đàn, ca ngợi tạo hóa và triều đại,
bởi vậy nên về sau người ta gọi là Tết Trạng nguyên; một ngày tết dành
riêng để tôn vinh việc học hành. Nước ta vào thời Lý - Trần, triều đình có tổ
chức Tết Trạng nguyên; đặc biệt dưới thời vua Lê Thánh Tông, Tết
Trạng nguyên được tổ chức một cách trọng thể ở kinh thành Thăng Long, khắp cả
trong cung ngoài phố múa hát đàn ca tưng bừng, cờ hoa trang hoàng rực rỡ.
Vào thời nhà Nguyễn, ở phía bắc Hoàng thành Huế,
có khu vườn Thư Quang. Vườn được lập vào năm 1836, mặt quay về hướng
đông, chu vi chừng một dặm. Bốn mặt vườn xây gạch bao quanh. Mặt trước trên cửa
chính vào vườn đề 4 chữ “Nhật Nguyệt Quang Minh”. Năm sau, khi vườn này lập
xong, vào tết Nguyên tiêu, vua Minh Mạng cùng quần thần rước thân mẫu là Thuận
Thiên Cao Hoàng hậu ra đây thưởng ngoạn. Năm 1838, nhà vua ban cho các Tân khoa
Tiến sĩ vào dự yến tại vườn Thư Quang, nên còn gọi là Thư Quang
Yến. Sau yến tiệc, lại cho các Tân khoa Tiến sĩ dạo vườn ngắm hoa, làm thơ
phú xướng họa. Khu vườn này rất nổi tiếng, đã được vua Thiệu Trị xếp vào hàng
thứ 4 trong 20 thắng cảnh đất Thần kinh, và tự thân ngài làm thơ ngâm vịnh, đặt
tên là “Thư Uyển Xuân Quang”.
Tết Nguyên tiêu - đêm trăng sáng đầu tiên của một
chu kỳ xuân mới, ánh trăng chiếu rạng khắp miền hạ giới sau một mùa đông dài
tối tăm, lạnh lẽo. Theo các nhà phong thủy, đêm này âm dương giao hòa đầy vượng
khí, càn khôn thịnh phát nhất tại cực điểm, cây trái thuận thời thi nhau trổi
dậy đâm chồi nẩy lộc, vạn vật hóa sinh. Trăng Nguyên tiêu thanh bình, gió lành
mơn man thổi nhẹ, không gian lãng đãng làm cho tâm hồn thi nhân thêm phấn chấn
trước những thay đổi của cảnh sắc mây trời, hương thơm của cỏ cây hoa trái lan
tảo khắp chôn nhân gian. Tết Nguyên tiêu là men tố, là thời khắc gây nguồn cảm
hứng thi ca bất tận. Vào dịp này, những tao nhân mặc khách hay kẻ sĩ thường tụ
họp lại ở các vườn nhà, hoặc rủ nhau lên núi ngắm trăng làm thơ, ngợi ca cảnh
đẹp quê hương đất nước. Đối với bình dân, vào dịp Tết Nguyên tiêu nhiều
nơi thường mở hội làng, bằng nhiều loại hình dân gian, tổ chức lễ thắp đèn hoa,
đua thuyền bơi trải, vật võ, có cả múa, hát, lục cúng hoa đăng…
Từ rất xưa, đã có rất nhiều văn nhân thi sĩ yêu
trăng đến mê mẩn, như Mãn Giác Thiền Sư, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Lê Thánh
Tông, Nguyễn Du, Cao Bá Quát…làm nhiều bài thơ hay về Nguyên tiêu. Ở thời cận
đại, vào dịp xuân Mậu Tý, năm 1948, tại núi rừng chiến khu Việt Bắc, nhà thơ Hồ
Chí Minh, mặc dù rất bận việc quân, việc nước, nhưng trước xuân trăng dạt dào
thi hứng, dẫn mạch như sóng trào, Người đã viết bài thơ Nguyên
tiêu bằng
chữ Hántuyệt hay. Xin đọc lại Nguyên tiêu qua bản dịch của nhà thơ
Xuân Thủy:
Rằm Tháng Giêng
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.
Đây là một trong những bài thơ hay nhất của thi
ca ViệtNamviết về trăng xuân. Từ cảm xúc sâu sắc qua bài thơ Nguyên
tiêu của nhà thơ Hồ Chí Minh đã khơi dậy những cảm xúc thi ca giàu triết
lý nhân văn của một đất nước ngàn năm văn hiến “lắm anh hùng, nhiều nghệ sĩ”. Từ
năm 2003, theo đề nghị của Hội Nhà văn ViệtNamvà những người yêu thơ ca, Nhà
nước ta đã đồng ý lấy ngày rằm tháng giêng hàng năm làm Ngày Thơ ViệtNam.
Vậy là cứ đến dịp Nguyên tiêu, khắp nơi trong
nước đều rộn ràng tổ chức Ngày Hội Thơ và những hoạt động liên quan đến thơ ca.
Đầu xuân Tân Mão 2011, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ IX được tổ chức từng bừng ở
mọi miền của Tổ quốc.
Bởi vậy mà từ ngàn xưa và chắc hẳn cho đến ngàn
sau, Tết Nguyên tiêu hay còn gọi là tết Trạng nguyên, Tết Thượng
nguyên đều được người Việt Nam xem trọng, bởi đấy là những hoạt động tinh thần
để cầu chúc cho nhau may mắn, một xã hội bình an, một ngày hội “bát ngát trăng
ngân” với linh khí đất trời tinh nguyên nhằm để tôn vinh việc học hành và làm
thăng hoa những giá trị minh triết của thi ca và văn hóa Việt Nam.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét